"Thưa
Thầy, con... mất ruột"
Tôn nữ Quỳnh Diêu
Chị Tôn Nữ Quỳnh Diêu là cựu học sinh lớp 12C1
trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), niên khóa 1970 - 1971.
Bài viết "Thưa Thầy, con ...
mất ruột" do chị viết đã được gửi đến gia đình chúng tôi.
Trân trọng những tình cảm của chị dành cho thầy giáo cũ, được sự đồng ý của chị, chúng tôi xin được đăng bài viết này.
Trân trọng những tình cảm của chị dành cho thầy giáo cũ, được sự đồng ý của chị, chúng tôi xin được đăng bài viết này.
Ngày 16 tháng 8 năm 2012
Kính dâng
hương linh Thầy P.K.A.
Mến tặng
em P.A.T.
và các
bạn lớp 12C1- ĐK, nk 1970-1971.
T.N.Q.D.
Chiều nay, nhìn lại tấm hình của lớp 12 C1,
Pháp văn sinh ngữ 1, niên khóa 1970-1971 chụp theo bản đồ lớp với thầy Phạm
Kiêm Âu, làm tôi nhớ lại những ngày thần tiên của thuở học trò xa xưa. Mặc dù
nó đã bị ố vàng theo thời gian nhưng từng khuôn mặt bạn bè vẫn hiện ra rõ trong
ký ức tôi. Mới đó mà cũng hơn bốn mươi năm tôi rời trường xa lớp. Sau
những năm tháng bận rộn với công việc, cơm áo gạo tiền, bây giờ ngồi nhớ lại
thấy cả một trời tiếc nuối, bâng khuâng.
Kỷ niệm bao giờ cũng có buồn lẫn vui, nhưng
đậm nét nhất, vui và cười ra nước mắt vẫn là những giờ học Pháp văn với thầy
Âu, vị Thầy chúng tôi không những kính trọng mà còn thương như một người cha
hiền từ. Mặc dù Thầy không là giáo sư hướng dẫn lớp tôi, nhưng Thầy vẫn
hiểu rõ hoàn cảnh, giúp đỡ, khích lệ chúng tôi chăm lo học hành.
Đặc biệt giờ Thầy, luôn luôn tụi tôi phải có
mặt đầy đủ trước khi Thầy bước chân vào lớp. Khi Thầy đã "ngự'' trong
lớp rồi là "ngoại bất nhập", vì vậy mà Thầy cho phép tụi tôi có thể
chen lấn, lắm lúc còn "xô" Thầy ra để vào lớp trước Thầy.
Và
một điều nữa là khi Thầy phát bài làm, học trò phải giữ cho kỹ đề bài, làm xong
trả lại Thầy, không được để mất một tờ nào. Thường thường cứ mỗi tuần Thầy
cho một bài theme ngắn khoảng từ mười đến hai mươi câu, đem về nhà
làm. Bài theme đó được Thầy đánh máy và quây roneo, xong cắt ra thành từng
tờ nhỏ khoảng một phần ba tờ giấy học trò. Khi làm bài xong phải đặt tấm
giấy nhỏ ở giữa tờ bài làm và nộp lại cho Thầy. Vì vậy tụi tôi gọi là
"ruột". Thầy luôn luôn nhắc không được phép để mất ruột khi nộp
bài cho Thầy, phải giữ ruột sạch, không được lấm mực, và Thầy kiểm soát rất kỹ
nên đứa nào cũng phải nâng niu như ... con ruột
của mình vậy. Cũng vì mấy tờ ruột đó mà tôi đã bị một lần "lên
ruột" và còn nhớ mãi cho tới bây giờ.
Một
sáng chủ nhật, sau khi chia tay với "cọp nâu" sau mấy ngày phép ngắn
ngủi, tự nhiên tôi thấy lo lo, buồn buồn, súng đạn vô tình, làm sao biết được.
Đợi
cho đến xế chiều tôi mới đem bài Pháp văn ra làm. Hỡi ôi, tờ ruột đã không
cánh mà bay, tôi cố công tìm vẫn không thấy. Tôi nhớ là tôi rất kỹ, đã kẹp
nó trong cuốn redaction, vậy mà bây giờ nó biến đi đâu. Tôi mở từng trang
vở, xáo tung tất cả sách, lôi hết cặp ra cũng "bặt vô âm
tín". Lúc đó mặc dù trời ở Huế đang mùa Đông mà tôi vẫn đổ mồ hôi
hột. Làm sao bây giờ, thôi thì đi tìm nó chứ sao. Tôi rủ con N. và
thêm mấy đứa bạn nữa, thế là một đoàn hùng binh cỡi chiến mã... sắt lên đường
đi tìm ruột, mà chẳng thấy ruột đâu. Đến nhà đứa nào cũng cùng một giọng
điệu "chết mi rồi, mất ruột thầy Âu chỉ có nước... chết". Một
quân sư khác góp ý "mi mu khóc, cứ lên gặp thầy, đem "cọp nâu"
ra dọa, khóc hụ hụ lên, rồi đổ thừa cho "cọp nâu" lỡ dại xếp tàu bay
chơi rồi, là Thầy... sợ liền". Mỗi đứa một ý càng làm cho tôi quýnh
lên. Con N. nghe vậy nói "mi nói chi lạ rứa, ai lại đổ thừa cho người
ta tội chết, để tau cho mi mượn ruột tau, rồi về nhờ ông Ngoại mi đánh máy lại
là xong". Tôi nghe như vậy quá mừng, phóng nhanh về nhà, và tối hôm
đó mặc dù đang bị cảm, ông Ngoại tôi cũng phải thức để giúp tôi hoàn thành tấm
ruột giả, trả Thầy. Khổ một nỗi kiếm đâu ra giấy roneo cho giống ruột của
Thầy bây giờ, thôi đành phải dùng giấy pelure trắng vậy. Sau khi đưa tôi
tờ ruột giả, ông Ngoại còn căn dặn "lần sau nhớ cẩn thận nghe con"
làm cho tôi thật hết sức ân hận.
Vậy
là sáng mai tôi nộp bài với tấm ruột giả. Tôi đành nhắm mắt thưa thật với
Thầy "Thưa Thầy", Thầy hỏi "Có chuyện gì?" "Thưa Thầy
con..." "Con sao?" "Dạ con mất ruột" Thầy
sửa lại gọng kính, nhìn tôi "Mất ruột?" "Dạ, vì vậy
hồi hôm con đã nhờ ông Ngoại con đánh máy ruột khác để trả lại Thầy, nhưng ruột
con trắng chứ không vàng giống Thầy". Thầy cầm tờ ruột giả rồi nhìn
tôi, tôi nghĩ thế nào Thầy cũng la tôi một trận, nhưng chờ hoài chẳng
thấy. Và với giọng Nam hiền hòa, Thầy nói "Tội hôn, sao không cho
Thầy hay mà lại để cho ông Ngoại già yếu thức đêm giúp con như vậy tội
quá. Lần sau nhớ cẩn thận nghe con". Nghe đến đó tự nhiên tôi
thấy tủi thân và tôi khóc òa lên làm Thầy cũng ngạc nhiên và thế là Thầy cho
tôi về chỗ ngồi. Sau lần đó tôi thề không bao giờ để mất ruột lần nữa.
Rồi
cũng nhờ mấy tấm ruột đó mà con "bạn ruột" của tôi, đã tìm được
"bức tối hậu thư" nó gửi cho Thầy năm xưa, không ngờ Thầy vẫn còn giữ
cho tới bốn mươi năm sau, lúc trở về Huế nó có dịp ghé thăm và con trai Thầy đã
soạn ra đưa cho nó. Đó là cả một kỷ vật vô giá mà những ai là học trò
thầy Âu mới có được.
*****
Và đây là "bức tối hậu thư" trả nợ
ruột của bạn tôi:
Việt
Nam Cọng Hòa
Huế, ngày
7. Mai. 1971
Kính
thưa Thầy,
Con
tên là Cái thị Thu Hương, sinh ngày 01.08.1952, tại Phường Thái Trạch, Thành
nội, Huế. Hiện trú tại 19 Phan Thanh Giản, thuộc quận 3, tỉnh Thừa
Thiên. Kính xin thầy một việc quan trọng sau đây.
Nhân
gần ngày lễ Phật Đản, con muốn thanh toán nợ nần cho Thầy, nợ gồm có: 3 ruột,
đáng lẽ phải nộp sáng thứ hai, nhưng con bị "estomac" nên không đi
học được để trả ruột cho Thầy. Bây giờ con trả ruột cho Thầy
rồi. Thầy thông cảm cho con một lần cuối cùng rồi thôi.
Nam
mô A Di Đà Phật.
Xin
Phật phù hộ cho Thầy an khang trường thọ. Lạy Thầy ạ.
Con
Thu
Hương
(Sao
y bản chánh)
Biết
là "quá khứ không nên truy tìm" , nhưng đôi lúc tìm về quá khứ lại là
những viên thuốc an thần cho những bất an và phiền não ở hiện tại.
Sau
bốn mươi mốt năm xa trường, chiều nay tôi ngồi bên ni nhớ về bên tê đại dương
mà thấy lòng thương nhớ khôn nguôi.
Vài
dòng con kính gởi Thầy,
Thưa
Thầy,
Hôm
nay buồn buồn con ngồi kể chuyện đời xưa với Thầy. Con vẫn nhớ như in dáng
Thầy dong dỏng cao, với chiếc áo laine màu nâu nhạt, cổ bà lai, có hai túi
nhỏ. Thầy luôn xách chiếc cặp táp căng phồng mà tụi con đặt cho Thầy là
" Monsieur Grander ".
Con
vẫn còn nhớ, mỗi lúc Thầy dừng bước trước cửa lớp, dậm dậm chân, cười chúm
chím, cốt để cho tụi con - những đứa ham ăn đang mê mãi với những chiếc
bánh quai vạt đậu xanh nóng hỗi hay ly chè bột lọc bọc dừa ngọt lịm của chị
Châu, có thì giờ "rượt" cho kịp Thầy. Thầy không muốn tụi con bị
trễ mất một giờ học. Lúc nào trông Thầy cũng nghiêm nghị, "làm mặt
lạnh" cốt để cho tụi con lo học vì năm thi gần kề, chứ không bao giờ Thầy
"nặng tay" với tụi con. Với tấm lòng của Thầy như vậy, mà sao
hồi đó sau khi thi đậu, tụi con lại không nhớ ghé thăm Thầy, cho Thầy hay những
tháng ngày Thầy đã khổ công với tụi con nay đã có kết quả tốt. Rồi mãi đến
mấy mươi năm sau, lúc Thầy không còn nữa con mới nhớ lại và viết vài dòng cho
Thầy. Con nghĩ
với tâm lượng từ bi, Thầy đang ở nơi chốn bình yên nào đó, và Thầy đang mĩm
cười mà tha thứ cho tụi con - một lũ con gái tinh nghịch lúc nào cũng mơ
mơ màng màng như người ở cõi trên, hỏi một đằng trả lời một nẻo, thích làm
những chuyện ngược đời chẳng giống ai. Đến nỗi có hôm Thầy bắt gặp, Thầy
nhìn tụi con lắc đầu ngán ngẩm: "thiên tài thì giới hạn mà lũ khùng
điên thì không bến bờ", tụi con nhìn Thầy cười ha ha, và rồi thì thầy trò
cùng... cười.
Vài
giòng như một nén tâm hương con xin gởi đến Thầy, và ước gì nếu có được cuốn
sách ước, con sẽ: "ước chi con được trở lại lớp 12 C1 năm xưa, với
mười lăm phút "bonus" sau mỗi buổi học, để được nghe lại giọng trầm
trầm với cuốn "Monsieur Grander" của Thầy.